Phong Kiến Pháp

Phong Kiến Pháp

Từ thời Tây Chu, lễ dần dần trở thành một thể chế chính trị, hỗ trợ cho hình luật. Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị khác, đặc biệt là thuyết pháp trị- phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dung lễ giáo chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt trong triều đại nhà Tần, Tần thủy Hoàng chủ trương chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong thời kì này rất mờ nhạt. Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ- nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các nguyên tắc: Đức chủ hình phụ và Lễ pháp tịnh dụng.

Từ thời Tây Chu, lễ dần dần trở thành một thể chế chính trị, hỗ trợ cho hình luật. Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị khác, đặc biệt là thuyết pháp trị- phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dung lễ giáo chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt trong triều đại nhà Tần, Tần thủy Hoàng chủ trương chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong thời kì này rất mờ nhạt. Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ- nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các nguyên tắc: Đức chủ hình phụ và Lễ pháp tịnh dụng.

Tương Lai của Giáo Dục Nho Giáo

Ngày nay, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng đến văn hóa và tư tưởng của người dân Trung Quốc và các nước Đông Á. Việc kế thừa và phát huy những giá trị tích cực của Nho giáo, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó là một bài toán đặt ra cho các nhà giáo dục hiện đại. Giáo sư Trần Văn Đức, một chuyên gia về Nho học, cho rằng: “Cần phải có cái nhìn khách quan, khoa học về Nho giáo, lọc bỏ những yếu tố lạc hậu, bảo thủ, đồng thời phát huy những giá trị nhân văn, đạo đức để phục vụ cho sự phát triển của xã hội hiện đại.”

Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội

Bạn có thể tìm hiểu thêm về Bộ Giáo Dục Úc để tham khảo một hệ thống giáo dục hiện đại. Ngoài ra, nếu bạn quan tâm đến việc tuyển dụng giáo viên giáo dục đặc biệt, hãy truy cập vào liên kết này.

Tóm lại, giáo dục Nho giáo phong kiến Trung Quốc là một hệ thống phức tạp, có cả ưu điểm và hạn chế. Hiểu rõ về nó giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về lịch sử, văn hóa và tư tưởng của Trung Quốc. Hãy để lại bình luận và chia sẻ bài viết nếu bạn thấy hữu ích nhé! Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ Số Điện Thoại: 0372777779, hoặc đến địa chỉ: 233 Lê thanh Nghị, Hà Nội. Chúng tôi có đội ngũ chăm sóc khách hàng 24/7.

Tuy nhiên, từ thời hoàng đế Thuận Trị nhà Thanh (1638 - 1661), hoàng tộc bắt đầu loại trừ phụ nữ Hán tiến cung bằng cách chỉ giới hạn chọn phi tần cho vua trong các gia đình Bát kỳ, chủ yếu là người Mãn Châu và Mông Cổ.

Nhà Thanh là triều đại do dòng họ Ái Tân Giác La ở Mãn Châu thành lập. Bát kỳ là một chế độ tổ chức quân sự đặc trưng của người Mãn Châu, mỗi đơn vị được phân biệt bằng một lá cờ khác nhau, tổng cộng có tám lá cờ cơ bản. Bát kỳ ban đầu chỉ dùng cho người Mãn Châu, sau được phát triển thêm Mông Cổ Bát kỳ và Hán tộc Bát kỳ, vì vậy gọi chung Bát kỳ.

Ba năm một lần, Bộ Hộ phối hợp với Nội vụ phủ sẽ gửi thông báo tuyển tú nữ tới quan lại ở kinh thành và các gia đình Bát Kỳ trên khắp cả nước để nhờ người đứng đầu các thị tộc hỗ trợ. Quan chức sau đó gửi danh sách những thiếu nữ đủ tiêu chuẩn tới Bộ Hộ và Nội vụ phủ ở kinh thành.

Dưới thời nhà Thanh, các cô gái được lựa chọn sẽ được đưa đến Thần Vũ Môn vào ngày đã được chỉ định. Đi cùng họ là cha mẹ, những người họ hàng gần nhất và người đứng đầu thị tộc hoặc quan lại địa phương. Nền tảng xã hội không phải rào cản và nhiều hoàng đế chọn phi tần từ thường dân. Hoàng hậu là một ngoại lệ, bà luôn được chọn từ một gia đình quan chức phẩm vị cao.

Gần 100 ứng viên được chọn sẽ được các “ma ma” đào tạo. Cơ thể họ cũng được kiểm tra để đảm bảo không mắc bệnh ngoài da, mùi cơ thể và những vấn đề khác. Những người được lựa chọn cuối cùng sẽ được rèn luyện cách nói năng, cử chỉ, đi lại, hành vi được phép. Họ cũng được dạy đọc sách, viết chữ, cầm, kỳ, thi, họa.

Cuối cùng, những ứng viên nổi bật sẽ dành ra vài ngày để hầu hạ mẹ của hoàng đế, chăm sóc các nhu cầu hàng ngày của bà. Họ cũng phải trải qua các cuộc kiểm tra trong lúc ngủ để xem có thói quen xấu như ngáy, phát ra mùi, nói mê hoặc mộng du hay không.

Vào năm 1621, hoàng đế Thiên Khải nhà Minh phái thái giám đi khắp đất nước để chọn ra 5.000 cô gái từ 13 - 16 tuổi, từ đó ông sẽ chọn một người làm vợ. Ngày đầu tiên, các cô gái xếp thành hàng 100 người theo độ tuổi và 1.000 người bị loại vì quá cao, thấp, gầy hoặc béo.

Ngày thứ hai, thái giám kiểm tra cơ thể các cô gái, đánh giá giọng nói, cách cư xử của họ. Sau đó, thêm 2.000 người bị loại. Sang ngày thứ ba, thái giám quan sát bàn chân, tay và vẻ duyên dáng khi di chuyển, 1000 người nữa bị loại. Khi 1.000 thiếu nữ còn lại trải qua các cuộc kiểm tra phụ khoa, thêm 700 người không đủ tiêu chuẩn.

300 người sau đó được đưa vào cung, nơi họ tiếp tục các cuộc kiểm tra trong một tháng về trí thông minh, khí chất và đạo đức. 50 người được chọn cuối cùng sẽ được kiểm tra thêm về toán, văn chương, nghệ thuật và được phân cấp bậc. Ba người xuất sắc nhất được phong tước vị phi tần cao nhất.

Chỉ vài người trong số những người trải qua quy trình nghiêm ngặt này nhận được sự chú ý của hoàng đế và được sủng ái. Phần lớn sẽ sống cuộc đời cô độc trong cung cấm và không có gì ngạc nhiên khi sự ghen tuông, đố kỵ thường xuyên xảy ra. Sắc đẹp có vẻ là một lời nguyền hơn là điều may mắn trong giai đoạn lịch sử này ở Trung Quốc.

Phi tần bị cấm quan hệ tình dục với bất cứ ai khác ngoài vua. Phần lớn hoạt động của họ đều bị giám sát bởi thái giám, những người nắm giữ quyền lực lớn trong cung. Phi tần phải tắm gội kỹ càng và được thái y kiểm tra trước khi được hoàng đế thị tẩm (ngủ với vua).

Giữa hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn người được chọn vào cung, người nào được vua sủng ái cũng phải chịu sự đố kỵ từ những người khác. Các phi tần có phòng riêng và sẽ lấp đầy những ngày tháng nhàn rỗi, tẻ nhạt của họ bằng cách trang điểm, may vá, đàn hát và gặp gỡ những phi tần khác. Nhiều người trong số họ sống cả đời trong cung mà không một lần được gặp mặt vua.

Trong hậu cung nhà Thanh, thứ bậc vẫn ổn định nhưng số lượng vợ và phi tần khác nhau dưới thời các hoàng đế khác nhau. Hoàng hậu (vợ cả của vua) và Thái hậu (mẹ của vua) có địa vị tương đương nhau. Dưới hoàng hậu là một hoàng quý phi, hai quý phi, bốn phi và sáu tần.

Chế độ đa thê là thông lệ phổ biến ở Trung Quốc thời phong kiến, dù thực tế chỉ những đàn ông giàu có thuộc tầng lớp thượng lưu và trung lưu mới có thể lấy thêm vợ. Đa thê như một sự khẳng định về quyền thế của người đàn ông, trọng tâm là việc sinh con nối dõi và kế thừa gia tộc.

Nho giáo nhấn mạnh khả năng "tề gia trị quốc" của đàn ông. Trong trường hợp của vua, việc sinh con để đảm bảo người kế vị ngai vàng là điều tối quan trọng.

Để duy trì chế độ đa thê, vợ cả, người có uy quyền vượt trội hơn những người vợ khác, chịu trách nhiệm tuân thủ các nguyên tắc và khuyên bảo những người vợ khác chung sống hòa thuận với nhau.

Phụ nữ phải vượt lên những cảm xúc thông thường, không được ghen tuông, đố kỵ hay ganh đua. Người chồng phải dành tình cảm đồng đều cho các bà vợ, không được đặc biệt ưu ái ai hay để người phụ nữ nào độc chiếm.

Thời phong kiến, người ta tin rằng đời sống tình dục của vua là điều cần thiết để duy trì sự thịnh vượng của triều đại. Từ thế kỷ thứ mười, lịch của Trung Quốc không phải dùng để theo dõi thời gian mà để kiểm soát chuyện chăn gối của vua. Vòng luân chuyển các phi tần được thị tẩm được kiểm soát chặt chẽ và được ghi chép cẩn thận.

Ở Trung Quốc và một số nước châu Á, tuổi được xác định từ thời điểm thụ thai, không phải thời điểm sinh ra. Hoàng tộc Trung Quốc tin rằng phụ nữ có khả năng thụ thai nhiều nhất vào thời điểm trăng tròn.

Hoàng hậu và các phi tần phẩm vị cao sẽ được thị tẩm vào thời điểm trăng tròn để sinh ra những đứa trẻ khỏe mạnh, có phẩm hạnh. Các phi tần cấp thấp hầu hạ vua vào những ngày trăng non để nuôi dưỡng dương khí cho vua.

Trong số các phi tần thời nhà Thanh, Trân Phi là một người nổi tiếng. Bà vào cung năm 1899 dưới thời hoàng đế Quang Tự khi mới 13 tuổi. Bà được phong làm hoàng quý phi, chỉ đứng sau hoàng hậu Long Dụ, cháu của Từ Hy Thái hậu.

Trân Phi là một phụ nữ xinh đẹp và thông minh. Là phi tần được hoàng đế Quang Tự rất yêu thích, Trân Phi rất có ảnh hưởng trong triều đình. Bà ghét các quy tắc, có xu hướng nổi loạn nên khiến Từ Hy tức giận, luôn tìm cách trừng phạt.

Ngày 20/6/1900, liên minh tám nước bao vây Bắc Kinh, Từ Hy buộc Quang Tự phải cùng bà tạm lánh đến Tây An. Trước khi rời đi, Từ Hy ra lệnh cho Trân Phi phải tự sát với lý do tuổi trẻ và nhan sắc của bà sẽ gây nguy hiểm cho hoàng tộc và cũng sẽ làm ô uế nếu bà bị lính nước ngoài cưỡng hiếp.

Trân phi không chấp thuận, yêu cầu được gặp hoàng thượng để nói chuyện. Người ta tin rằng Từ Hy đã đáp lại yêu cầu này bằng cách ra lệnh cho các thái giám ném Trân phi xuống một cái giếng phía sau cung Ninh Hạ.

Với số lượng lớn phi tần trong hậu cung, sự cạnh tranh để giành ưu ái từ hoàng đế là điều không thể tránh khỏi. Vị trí được thèm muốn nhất là hoàng hậu, việc mang thai một đứa con trai cho hoàng đế cũng là điểm lợi lớn trong hậu cung.

Những người đầy tham vọng sẽ lên kế hoạch chống lại các đối thủ của mình bằng cách hình thành liên minh với thái giám. Nếu mưu đồ thành công, người phụ nữ này có thể lên được vị trí cao hơn. Đổi lại, họ sẽ thưởng cho thái giám hỗ trợ mình tiền bạc và địa vị quyền lực.

Tuy nhiên, không phải tất cả hậu cung đều đầy rẫy âm mưu. Truyền thuyết về hoàng đế Hiên Viên kể rằng ông có bốn phi tần, không chọn lựa theo bề ngoài mà dựa trên năng lực của họ. Một người được coi là người phát minh ra nghệ thuật nấu ăn và đũa, trong khi một phi tần khác được cho là đã phát minh ra lược. Họ đã cùng nhau giúp hoàng đế cai trị đất nước.

Nhiều thê thiếp có số phận bi thảm khi hoàng đế qua đời. Họ bị hiến tế, thường là chôn sống, để đoàn tụ với chủ nhân của mình ở thế giới bên kia.

Cấp bậc quan lại trong xã hội phong kiến

Quan lại là những người trong bộ máy nhà nước phong kiến và bộ máy nhà nước ở Việt Nam thời thuộc Pháp từ cấp huyện trở lên, gồm người điều hành là “Quan” và những người thừa hành là “Lại”.

Quan lại được thay đổi qua nhiều triều đại, cấp bậc cũng từ đó thay đổi theo, nhưng tên và quyền hạn của các chức quan đó đa số đều không có nhiều thay đổi, trong đó có những cấp bậc chủ yếu sau:

Các quan cao nhất chuyên phụ giúp cho vua có:

- Tể tướng (qua các triều đại còn có tên Bách quỹ, Thừa tướng, Tướng quốc): Người đứng đầu của các quan văn trong triều, có thể thay mặt vua xử lý mọi việc hành chính quốc gia.

- Thái sư, Thái phó, Thái bảo: thầy, nuôi nấng, dạy dỗ vua, ba chức lớn nhất, gọi là Tam Công.

- Thiếu sư, Thiếu bảo, Thiếu phó: quan dưới một bậc, chuyên giúp đỡ Tam Công, gọi là Tam Thiếu.

- Thái tể, Thái tông, Thái sử, Thái chúc, Thái sĩ, Thái bốc: giúp vua xử lý chính vụ, đứng hai bên tả hữu vua, gọi là Lục Thái.

+ Tư Đồ: giữ việc nông thương, cảnh sát, giáo dục, rèn đúc dân.

+ Tư Khấu: coi về hình phạt, kiện tụng.

+ Tư Mã: thống sáu quân, dẹp yên trong nước.

+ Tư Thổ: giữ lễ của nước (tế tự, triều sinh...).

+ Tư Không: khuyến công, nông, việc thổ mộc, xét địa lợi, thiên thời.

- Thái úy: coi binh quyền, quân sự, là chức quan tổng thống việc binh (là quan võ ngang với Tể tướng).

- Đại học sĩ: là cố vấn của vua trong những việc trọng đại. Ở Trung Quốc, từ nhà Minh chức Tể tướng bị xóa, chỉ còn lại Đại học sĩ là cao nhất.

- Ngự sử đại phu: chuyên can gián, kiểm soát các quan.

- Đứng đầu các bộ là Thượng thư, giúp việc có Tả thị lang, hữu thị lang. Gồm có 6 bộ, hay Lục bộ:

+ Lại bộ: bổ nhiệm quan chức, phong tước, xét công, bãi nhiễm và thăng chức cho các quan lại, quản lý quan lại.

+ Lễ bộ: lo việc tổ chức yến tiệc, thi cử, lễ nghi trong triều đình, chuẩn bị áo mũ, ấn tín, tấu chương v.v... Quản lý các lễ cống nạp của chư hầu, cũng như lo việc bói toán, đồng văn nhã nhạc.

+ Hộ bộ: quản lý ruộng đất, thu phát bổng lộc liên quan đến đất đai như thóc gạo, hay hôn nhân, hộ khẩu. coi phép lưu thông tiền tệ, vật giá đắt rẻ...

+ Binh bộ: quản lý cấm vệ quân, xe ngựa, vũ khí đạn dược cũng như mọi thứ liên quan tới quân sự, bảo vệ đất nước.

+ Hình bộ: chính lệnh về pháp luật, xét lại những án nặng, tội còn ngờ.

+ Công bộ: phụ trách mọi việc xây dựng cầu cống, đường xá, cung đình, sửa sang việc thổ mộc, đắp thành, đóng thuyền bè.

- Dưới bộ còn có các Ty. Đứng đầu mỗi ty là Lang trung với Viên ngoại lang và Chủ sự phụ giúp.

- Tiếp theo là các Tự. Ðứng đầu là các tự là Tự khanh, rồi đến Thiếu khanh, Tự thừa, Viên ngoại, Chủ sự, Tư vụ, thư lại. Gồm có các tự sau:

- Hồng lô tự: tổ chức, sắp xếp thể thức lễ nghi tiếp đón sứ giả nước ngoài, lễ Xuớng danh thi Ðình...

- Quang lộc tự: cung cấp, kiểm tra rượu lễ, thực vật trong các buổi tế tự, triều hội, yến tiệc.

- Ðại lý tự: Cơ quan xét xử tối cao, xét lại các án còn ngờ.

- Thái thường tự: trông coi đền chùa, thi hành thể thức lễ nghi, điều khiển ban âm nhạc.

- Thái bảo tự: đóng ấn quyển thi Hội.

Bên cạnh đó còn có các chức quan khác, đó là:

- Thượng thư tỉnh: giúp Tể tướng điều khiển trăm quan liên lạc với Thượng thư các Bộ.

- Trung thư tỉnh: là cơ quan quyết định chính sách, phụ trách thảo luận, soạn thảo, ban hành chiếu lệnh của Hoàng đế.

- Môn hạ tỉnh: chuyển lệnh vua đến các quan, tâu vua việc các quan thi hành lệnh vua, điều khiển lễ nghi trong cung.

- Khu mật sứ: Cơ mật viện, coi việc cơ mật, nắm quyền binh.

- Ngự sử đài: cơ quan giám sát, can gián các quan ở triều đình, sau còn được gọi là Đô sát viện.

- Hàn lâm viện: lo biên soạn văn thư.

- Quốc tử giám: lo dạy dỗ đào tạo con em giới cầm quyền, đứng đầu là Tế tửu.

- Tư thiên giám / Khâm thiên giám: coi thiên văn, lịch pháp.

- Thái y viện: lo việc thuốc men, chữa bệnh cho hoàng tộc, quan lại.

- Nội các: là văn phòng vua, ghi chép tấu, sớ các nha dâng lên, khởi thảo chiếu, chế, sắc ban ra các cơ quan, thi Ðình thì đằng lục các chế sách và cấp quyển thi.

- Tôn nhân phủ: là cơ quan quản lý nội bộ hoàng tộc, trông nom sổ sách, ngọc phả, đền miếu trong hoàng tộc; giải quyết các vấn đề có liên quan đến các thân vương, công tử, công tôn...

- Nội vụ phủ: là nơi quản lý các thái giám, cũng như công việc hành chính ở hậu cung.

- Thứ sử: giám sát, coi việc hành chính đứng đầu một quận quốc, hay một tỉnh, dù dưới quyền Thái thú, nhưng là người đại diện cho Thái thú khi vào kinh, sau khi chức Thái thú được bỏ thì Thứ sử là cao nhất.

- Thái thú: quan đứng đầu một quận, nhiệm vụ là thu nạp các cống phẩm của địa phương, nếu quận loạn lạc, sẽ được bổ nhiệm thêm một Đô úy có nhiệm vụ phụ trách quân sự, còn không Thái thú quản cả quân sự và dân sự của quận đó.

- Tổng đốc: là viên quan đứng đầu một vùng bao gồm nhiều tỉnh thành, trông coi cả về dân sự và quân sự.

- Tuần phủ: là người lãnh đạo một tỉnh hoặc một bộ phận của tỉnh lớn, có quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm các chức quan dưới quyền ở địa phương mình quản lý, có quyền lãnh đạo về hành chính, tài chính, quân sự cùa tỉnh. Nếu ở tỉnh đó có Tổng đốc, thì Tuần phủ phải nghe theo Tổng đốc.

- Tri phủ (tứ phẩm): Đứng đầu một phủ hoặc châu, có quyền cả dân sự và quân sự.

- Phủ doãn: quan thuộc cấp huyện, đàn áp cường hào, xét những vụ kiện do quan huyện xử mà kêu lại ở bản hạt, hàng ngũ phẩm.

- Án sát sứ: coi việc hành chính, kiện tụng, tư pháp, phong hóa, kỷ cương ở các tỉnh, dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ.

- Tri huyện (bát phẩm): đứng đầu một huyện.

- Huyện thừa (cửu phẩm): lo công văn, sổ sách trong huyện, phụ giúp Tri huyện.

- Xã trưởng: là người đứng đầu một xã, giúp các quan lại quản lý việc thu thuế của dân, giữ gìn an ninh trật tự, chọn lính nhập ngũ hoặc chọn thí sinh đi thi cử.

- Thượng tướng quân: quan ngoài, coi việc binh.

- Ðô hộ phủ Sĩ sư : (Ðường) coi phiên quốc, sau cải là Tiết độ sứ.

- Lãnh binh: võ tướng, chỉ huy quân đội cấp tỉnh.

- Ðô đốc: người trực tiếp điều khiển 5 quân.

- Thiếu úy: là chức quan tổng thống việc binh, coi cấm quân.

- Bá hộ: cũng gọi là Bách hộ, quan võ cầm 100 binh.

- Biền binh : một hạng lính không thường trực ở các tỉnh và kinh thành, chia ba ban thay nhau trực trong quân đội.

- Tiết độ sứ : là Ðô hộ phủ, quan võ coi ngoài biên ải.

- Vũ vệ : quân hộ tống khi vua đi ra ngoài.

- Vệ : cấm quân, bảo vệ quanh vua.

- Ðốc trấn: giữ yên địa phương.

- Cẩm y vệ: đi tuần cảnh, cấm binh.

- Lính lệ : làm tạp vụ ở huyện.

- Ðô thống ngũ quân (tiền, hậu, tả, hữu, trung) : quan võ, bảo vệ vua, hoàng tộc và kinh thành. Chỉ huy 5 binh chủng : Bộ binh, Thủy binh, Pháo binh, Tượng binh, Kỵ binh.

- Ðề lãnh: tuần hành xem xét các địa phận trong thành, xét hỏi những vụ kiện do Ngự sử đài quản lý.

- Vệ úy: người quản lý cửa cung, cửa thành.

Về cơ bản quan lại các triều đại về sau đều được chia ra làm chín phẩm, mỗi phẩm lại có hai cấp bậc là Chính và Tòng (phó), cấp Tòng thường là người phò tá cho Chính, có lương bổng thấp hơn một chút nhưng cùng phẩm quan.

Quan văn: Tể tướng, Tư đồ; Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Đại học sĩ cần chánh điện, Thái tử thái sư (phó).

Quan võ: Thái úy, Tư mã, Đô thống, Đô đốc, Thượng tướng quân.

Quan văn: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Thượng thư (đứng đầu các bộ), Tổng đốc (đứng đầu hai, ba tỉnh), Tuần phủ (đứng đầu một tỉnh).

Quan võ: Thiếu úy, Đề đốc, Đề lãnh, Tham đốc, Đại Tướng quân.

Quan văn: Tổng thái giám, thứ sử (đứng đầu các Châu) , Thị lang (Phó của Thượng thư), Ngự sử đại phu (chuyên can giám, kiểm soát các quan).

Quan võ: Nhất đẳng thị vệ, Vệ úy thị nội, Vệ úy giám thành, Vệ úy các quân, Tổng chỉ huy sứ (nắm quyền chỉ huy quân đội), Tổng binh sứ. Các quan võ cấp này thường được gọi là Tướng quân, trừ Thị vệ.

Quan văn: Học sĩ (trong viện Hàn lâm), Thái giám, Trường sử (Thư ký về văn thư), Phó tổng ngự sử, Tham tri.

Quan võ: Nhị đẳng thị vệ, Thành thủ úy, Cai đội nội các, Chỉ huy sứ, Tiết độ sứ. Các quan võ cấp này còn được gọi là Giám quân.

Quan văn: Phủ doãn, Đại sứ Thái y viện, Thị giảng trong Hàn Lâm Viện, Đông các Đại học sĩ.

Quan võ: Hiệu úy Cấm vệ quân, Tam đẳng thị vệ, Tứ đẳng thị vệ (cấp Phó), Đội trưởng các quân, Cai đội giám thành.

Quan văn: Thị thư trong Hàn Lâm Viện, Ngự y chính trong Thái y viện, Giám trưởng Tư thiên giám, Lang trung (mỗi bộ có 4 Ty, Lang trung đứng đầu các Ty), Tri phủ, Viên ngoại lang (trong lục bộ, cấp phó).

Quan võ: Ngũ đẳng thị vệ, Cai đội các thành trấn, Cai đội thổ binh, Đội trưởng chư quân.

Quan văn: Ngự sử giám sát, Trường sử ở Vương phủ, cấp phó trong Thái y viện, Giám phó Tư thiên giám, Tri huyện, Tri châu, Thông phán (quan chuyên xét xử)

Quan võ: Tiểu đội trưởng Cấm vệ quân, Tiểu đội trưởng Giám thành, Tiểu đội trưởng Chư quân.

Quan văn: Tu soạn trong Hàn Lâm Viện, Giám thứ trong Tư thiên giám, Huấn đạo, Huyện thừa (lo công văn), Tri sư các phủ.

Quan võ: Đội trưởng trạm dịch, Đội trướng các trấn đạo, binh ở Đại lý tự, Đội trưởng binh lính ở địa phương.

Quan văn: Các quan lo công văn ở các chợ, bến đồ, trạm dịch; Y sinh Thái y viện, Điển bạ Quốc tử giám, Đãi chiếu Hàn lâm viện.